"Kể từ khi tham gia công tác của Hội Sử học VN, tôi có nhiều cơ hội gặp đại tướng và bị ông cuốn hút không phải chỉ ở sự nghiệp quá đồ sộ của một nhà cách mạng, một vị Tổng tư lệnh mà còn ở phẩm cách của một nhà sử học lớn", nhà sử học Dương Trung Quốc viết như vậy về đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Ông kể cho tôi một đôi ký ức thời trai trẻ rồi đọc thuộc lòng những vần thơ hừng hực chí khí yêu nước của Phan Bội Châu. Ông kể lại những kỷ niệm về các nhân vật lịch sử mà ông từng tiếp xúc như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Trần Huy Liệu. Ông đọc thuộc từng bài trong sách giao khoa thư đã nhen nhóm trong lòng ông những bài học đầu tiên dạy làm người. Rồi những bài học lịch sử trên bục giảng ở trường tư thục Thăng Long...
Ông muốn nói rằng lịch sử là tri thức tạo nên tư cách của một con người có ý thức về xã hội. Năm 1998. Ông cho phép tôi được có mặt trong buổi ông cùng gia đình tiếp con trai cố Tổng thống Mỹ J. Kennedy. Hôm đó tôi thực sự nhận ra phong cách của một ông thày dạy sử. Châm rãi và mạch lạc, ông nói với anh bạn trẻ tuổi tác cách ông đúng một nửa thế kỷ về lịch sử mối quan hệ Việt - Mỹ.
Ông nói về những mối giao lưu đầu tiên giữa hai xứ sở cách nhau một đại dương mà vị tổng thống từng là người khởi thảo Tuyên ngôn độc lập Mỹ đã say mê các giống lúa ở Đàng Trong của Đại Việt, đến mối quan hệ Việt - Mỹ khi còn là đồng minh chống phát xít Nhật.
Ông chỉ tấm ảnh chụp chung với Bác Hồ treo trên tường nhà mình mà nói rằng: “Tấm ảnh kia mấy người bạn đồng minh Mỹ chụp cho tôi”... Vị đại tướng muốn nói với những người Mỹ trẻ tuổi rằng quan hệ giữa hai nước không chỉ có những trang sử đen tối của chiến tranh, và trang sử đang được viết tiếp phải là những trang tốt đẹp. Anh con trai của cố tổng thống Kennedy rất cảm động khi nghe vị đại tướng gợi lại hình ảnh khi cậu ta mới 4 tuổi đã dự đám tang cha của mình bị ám sát, và anh ta nói rằng những gì nhận được sau chuyến đi thăm VN và đặc biệt là trong buổi gặp đại tướng sẽ rất có ích cho bước đường sắp tới khi anh ta dự định bắt đầu bước vào chính trường...
Tôi cũng được quan sát từ khoảng cách rất gần hai cuộc tiếp kiến giữa đại tướng với cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ McNamara ở Hà Nội (1995 và 1997). Tính thuyết phục của vị đại tướng VN đối với một nhân vật mà nước Mỹ từng tôn sùng là một “bộ óc điện tử” chính là trọng lượng của những bằng chứng lịch sử đanh thép và thấm thía. Ông không quên từng chi tiết nhưng luôn đặt mọi lý lẽ của mình khớp với những gì lịch sử đã lên tiếng.
Khi nói chuyện với chúng tôi, những người làm công tác sử học hay đặc biệt là với giới trẻ, ông rất hay nhắc đến câu diễn ca mộc mạc của Bác Hồ: “Dân ta phải biết sử ta...”. Ông kể rằng đứng trước khả năng phải bắt buộc cầm súng đánh thực dân, Bác Hồ sai người đi tìm cuốn Việt Nam sử lược của Lệ Thần Trần Trọng Kim, khi đó là cuốn sách duy nhất biên soạn mạch lạc về lịch sử nước nhà để trao cho các vị lãnh đạo cuộc kháng chiến đọc. Không chỉ chí khí của người xưa mà nhiều bài học về cách đánh và cách thắng của ông cha chúng ta đem lại những tri thức rất bổ ích cho cuộc chiến đấu ở thế kỷ 20.
Khác với nhiều nhà hoạt động cách mạng khác, khi buông dần những công việc chính trường, ông thật sự dành tâm lực cho việc tổng kết lịch sử và lấy chính trải nghiệm của mình để tìm ra những bài học.
Không kể tới những công trình chính luận đóng góp vào tổng kết sự nghiệp cách mạng mà ông là một yếu nhân, đặc biệt là tổng kết chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc mà ông là tổng tư lệnh, đại tướng Võ Nguyên Giáp dành rất nhiều công sức để viết hồi ức của mình, điều mà mọi chính khách hiện đại đều làm. Nhưng khác mọi người, ông viết hồi ức với tất cả tình tiết riêng tư, kể cả những rung động tình cảm của mình nhưng lại để nói đến cả một dân tộc, một thời đại và một con người mà ông luôn coi là người thày vĩ đại của mình: Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Viết lịch sử hay hồi ức ông đều luôn đặt lên hàng đầu tính trung thực. Ông có cả một “bộ tham mưu” là những người hoạt động khoa học và thực tiễn trong và ngoài quân đội sẵn sàng góp ý kiến, sưu tập tư liệu cho ông. Một tinh thần tập thể cao cộng với một trí tuệ lớn lại luôn cầu thị của ông làm cho các tác phẩm ký tên ông trở thành những công trình hoàn chỉnh và có phong cách không trộn lẫn.
Viết sử ông luôn luôn lấy sự đoàn kết là mục tiêu như chính trong thực tiễn cách mạng. Tôi không quên một kỷ niệm: những chương đầu của cuốn sách Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng được ông cho phép đăng trên tạp chí Xưa & Nay của Hội Sử học VN (1995) trước khi sách công bố năm năm. Ở chương kết thúc ông điểm không thiếu một ai đã tham gia sự kiện lớn của lịch sử. Ông rất hài lòng khi chúng tôi chọn một tấm ảnh minh họa là lúc tổng tư lệnh chia tay tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng lên đường vào chiến trường. Hình ảnh hai vị tướng thân mật đứng bên một cây đào đang nở hoa làm ông rất hài lòng. Sau này khi sách in ông cũng tìm đúng tấm ảnh ấy dường như muốn nói lên một điều gì đó...
Từ nhân dân mà ra, Những năm tháng không thể nào quên, Chiến đấu giữa vòng vây, Điểm hẹn Điện Biên... cho đến Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng là gần trọn vẹn cả đời ông. Từ Điện Biên Phủ (1954) đến đại thắng mùa xuân (1975) còn một khoảng trống mà ông sẽ phải lấp đầy. Cộng với những tác phẩm mang tính tổng kết về chiến thắng Điện Biên Phủ và tư tưởng Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp là một tác gia kiệt xuất đã để lại một di sản thật sự đồ sộ về thế kỷ 20 hào hùng đầy thử thách. Và chính thế kỷ ấy lại mang dấu ấn của ông như một trong những gương lớn nhất làm thay đổi lịch sử.
Người nước ngoài khi đánh giá về đại tướng Võ Nguyên Giáp thường so sánh ông với những nhân vật lớn trong lịch sử nhân loại, đặc biệt là lịch sử chiến tranh. Họ có sự tinh tế mà ít khi ta chú ý tới, ví như Bách khoa toàn thư của Mỹ khi nói về quân hàm của ông luôn viết rằng Võ Nguyên Giáp là “đại tướng 5 sao” để nói đến một phẩm hàm tột đỉnh, mặc dù trên vai ông luôn luôn là quân hàm mang bốn ngôi sao năm cánh như nhiều vị đại tướng VN khác. Giới sử học VN tự hào có một vị tổng tư lệnh là chủ tịch danh dự hội nghề nghiệp của mình.
Ông kể cho tôi một đôi ký ức thời trai trẻ rồi đọc thuộc lòng những vần thơ hừng hực chí khí yêu nước của Phan Bội Châu. Ông kể lại những kỷ niệm về các nhân vật lịch sử mà ông từng tiếp xúc như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Trần Huy Liệu. Ông đọc thuộc từng bài trong sách giao khoa thư đã nhen nhóm trong lòng ông những bài học đầu tiên dạy làm người. Rồi những bài học lịch sử trên bục giảng ở trường tư thục Thăng Long...
Ông muốn nói rằng lịch sử là tri thức tạo nên tư cách của một con người có ý thức về xã hội. Năm 1998. Ông cho phép tôi được có mặt trong buổi ông cùng gia đình tiếp con trai cố Tổng thống Mỹ J. Kennedy. Hôm đó tôi thực sự nhận ra phong cách của một ông thày dạy sử. Châm rãi và mạch lạc, ông nói với anh bạn trẻ tuổi tác cách ông đúng một nửa thế kỷ về lịch sử mối quan hệ Việt - Mỹ.
Ông nói về những mối giao lưu đầu tiên giữa hai xứ sở cách nhau một đại dương mà vị tổng thống từng là người khởi thảo Tuyên ngôn độc lập Mỹ đã say mê các giống lúa ở Đàng Trong của Đại Việt, đến mối quan hệ Việt - Mỹ khi còn là đồng minh chống phát xít Nhật.
Ông chỉ tấm ảnh chụp chung với Bác Hồ treo trên tường nhà mình mà nói rằng: “Tấm ảnh kia mấy người bạn đồng minh Mỹ chụp cho tôi”... Vị đại tướng muốn nói với những người Mỹ trẻ tuổi rằng quan hệ giữa hai nước không chỉ có những trang sử đen tối của chiến tranh, và trang sử đang được viết tiếp phải là những trang tốt đẹp. Anh con trai của cố tổng thống Kennedy rất cảm động khi nghe vị đại tướng gợi lại hình ảnh khi cậu ta mới 4 tuổi đã dự đám tang cha của mình bị ám sát, và anh ta nói rằng những gì nhận được sau chuyến đi thăm VN và đặc biệt là trong buổi gặp đại tướng sẽ rất có ích cho bước đường sắp tới khi anh ta dự định bắt đầu bước vào chính trường...
Tôi cũng được quan sát từ khoảng cách rất gần hai cuộc tiếp kiến giữa đại tướng với cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ McNamara ở Hà Nội (1995 và 1997). Tính thuyết phục của vị đại tướng VN đối với một nhân vật mà nước Mỹ từng tôn sùng là một “bộ óc điện tử” chính là trọng lượng của những bằng chứng lịch sử đanh thép và thấm thía. Ông không quên từng chi tiết nhưng luôn đặt mọi lý lẽ của mình khớp với những gì lịch sử đã lên tiếng.
Khi nói chuyện với chúng tôi, những người làm công tác sử học hay đặc biệt là với giới trẻ, ông rất hay nhắc đến câu diễn ca mộc mạc của Bác Hồ: “Dân ta phải biết sử ta...”. Ông kể rằng đứng trước khả năng phải bắt buộc cầm súng đánh thực dân, Bác Hồ sai người đi tìm cuốn Việt Nam sử lược của Lệ Thần Trần Trọng Kim, khi đó là cuốn sách duy nhất biên soạn mạch lạc về lịch sử nước nhà để trao cho các vị lãnh đạo cuộc kháng chiến đọc. Không chỉ chí khí của người xưa mà nhiều bài học về cách đánh và cách thắng của ông cha chúng ta đem lại những tri thức rất bổ ích cho cuộc chiến đấu ở thế kỷ 20.
Khác với nhiều nhà hoạt động cách mạng khác, khi buông dần những công việc chính trường, ông thật sự dành tâm lực cho việc tổng kết lịch sử và lấy chính trải nghiệm của mình để tìm ra những bài học.
Không kể tới những công trình chính luận đóng góp vào tổng kết sự nghiệp cách mạng mà ông là một yếu nhân, đặc biệt là tổng kết chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc mà ông là tổng tư lệnh, đại tướng Võ Nguyên Giáp dành rất nhiều công sức để viết hồi ức của mình, điều mà mọi chính khách hiện đại đều làm. Nhưng khác mọi người, ông viết hồi ức với tất cả tình tiết riêng tư, kể cả những rung động tình cảm của mình nhưng lại để nói đến cả một dân tộc, một thời đại và một con người mà ông luôn coi là người thày vĩ đại của mình: Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Viết lịch sử hay hồi ức ông đều luôn đặt lên hàng đầu tính trung thực. Ông có cả một “bộ tham mưu” là những người hoạt động khoa học và thực tiễn trong và ngoài quân đội sẵn sàng góp ý kiến, sưu tập tư liệu cho ông. Một tinh thần tập thể cao cộng với một trí tuệ lớn lại luôn cầu thị của ông làm cho các tác phẩm ký tên ông trở thành những công trình hoàn chỉnh và có phong cách không trộn lẫn.
Viết sử ông luôn luôn lấy sự đoàn kết là mục tiêu như chính trong thực tiễn cách mạng. Tôi không quên một kỷ niệm: những chương đầu của cuốn sách Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng được ông cho phép đăng trên tạp chí Xưa & Nay của Hội Sử học VN (1995) trước khi sách công bố năm năm. Ở chương kết thúc ông điểm không thiếu một ai đã tham gia sự kiện lớn của lịch sử. Ông rất hài lòng khi chúng tôi chọn một tấm ảnh minh họa là lúc tổng tư lệnh chia tay tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng lên đường vào chiến trường. Hình ảnh hai vị tướng thân mật đứng bên một cây đào đang nở hoa làm ông rất hài lòng. Sau này khi sách in ông cũng tìm đúng tấm ảnh ấy dường như muốn nói lên một điều gì đó...
Từ nhân dân mà ra, Những năm tháng không thể nào quên, Chiến đấu giữa vòng vây, Điểm hẹn Điện Biên... cho đến Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng là gần trọn vẹn cả đời ông. Từ Điện Biên Phủ (1954) đến đại thắng mùa xuân (1975) còn một khoảng trống mà ông sẽ phải lấp đầy. Cộng với những tác phẩm mang tính tổng kết về chiến thắng Điện Biên Phủ và tư tưởng Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp là một tác gia kiệt xuất đã để lại một di sản thật sự đồ sộ về thế kỷ 20 hào hùng đầy thử thách. Và chính thế kỷ ấy lại mang dấu ấn của ông như một trong những gương lớn nhất làm thay đổi lịch sử.
Người nước ngoài khi đánh giá về đại tướng Võ Nguyên Giáp thường so sánh ông với những nhân vật lớn trong lịch sử nhân loại, đặc biệt là lịch sử chiến tranh. Họ có sự tinh tế mà ít khi ta chú ý tới, ví như Bách khoa toàn thư của Mỹ khi nói về quân hàm của ông luôn viết rằng Võ Nguyên Giáp là “đại tướng 5 sao” để nói đến một phẩm hàm tột đỉnh, mặc dù trên vai ông luôn luôn là quân hàm mang bốn ngôi sao năm cánh như nhiều vị đại tướng VN khác. Giới sử học VN tự hào có một vị tổng tư lệnh là chủ tịch danh dự hội nghề nghiệp của mình.
(Theo Tuổi Trẻ)